Khi bạn sẵn sàng nộp đơn vào đại học, điều quan trọng không chỉ là nghĩ về chủ đề bài luận bạn lựa chọn mà còn học hỏi từ những người đi trước đã thành công. Có rất nhiều ví dụ về các bài luận vào đại học đã thành công ở trên mạng. Các trường mà bạn muốn nộp đơn có thể có đã từng đăng một vài bài. Vì vậy, bạn hãy tìm kiếm, nghiên cứu để hiểu điều gì đã giúp cho các sinh viên đó “đánh gục” ban tuyển sinh.
Abigail Mack đã giải mã chính xác
Bài luận bạn có thể đọc ngay bên dưới là của Abig Mack, hiện là sinh viên của ngôi trường đại học cô mơ ước – Đại học Harvard. Mỗi năm, tờ báo sinh viên Harvard, The Crimson, đều chia sẻ 10 bài luận cá nhân của các ứng viên thành công và đây là một trong số đó.
Chúng tôi sẽ chia sẻ toàn bộ bài luận cá nhân bằng tiếng Anh và sau đó, chúng tôi sẽ phân tích từng dòng để bạn biết vì sao bài luận quá thành công. Chúng tôi sẽ đưa ra một vài lời khuyên cho bạn để bạn có thể viết lên câu chuyện của chính mình theo cách riêng của bạn.
I hate the letter “S”. Of the 164,777 words with “S”, I only grapple with one. To condemn an entire letter because of its use 0.0006% of the time sounds statistically absurd, but that one case changed 100% of my life. I used to have two parents, but now I have one, and the “S” in “parents” isn’t going anywhere.
“S” follows me. I can’t get through a day without being reminded that while my friends went out to dinner with their parents, I ate with my parent. As I write this essay, there is a blue line under the word “parent” telling me to check my grammar; even Grammarly assumes that I should have parents, but cancer doesn’t listen to edit suggestions. I won’t claim that my situation is as unique as 1 in 164,777, but it is still an exception to the rule – an outlier. The world isn’t meant for this special case.
The world wouldn’t abandon “S” because of me, so I tried to abandon “S”. I could get away from “S” if I stayed busy; you can’t have dinner with your “parent” (thanks again, Grammarly) if you’re too busy to have family dinner. Any spare time that I had, I filled. I became known as the “busy kid”- the one that everyone always asks, “How do you have time?” Morning meetings, classes, after school meetings, volleyball practice, dance class, rehearsal in Boston, homework, sleep, repeat. Though my specific schedule has changed over time, the busyness has not. I couldn’t fill the loss that “S” left in my life, but I could at least make sure I didn’t have to think about it. There were so many things in my life that I couldn’t control, so I controlled what I could- my schedule. I never succumbed to the stress of potentially over-committing. I thrived. It became a challenge to juggle it all, but I’d soon find a rhythm. But rhythm wasn’t what I wanted. Rhythm may not have an “S”, but “S” sure liked to come by when I was idle. So, I added another ball, and another, and another. Soon I noticed that the same “color” balls kept falling into my hands- theater, academics, politics. I began to want to come into contact with these more and more, so I further narrowed the scope of my color wheel and increased the shades of my primary colors.
Life became easier to juggle, but for the first time, I didn’t add another ball. I found my rhythm, and I embraced it. I stopped running away from a single “S” and began chasing a double “S”- passion. Passion has given me purpose. I was shackled to “S” as I tried to escape the confines of the traditional familial structure. No matter how far I ran, “S” stayed behind me because I kept looking back. I’ve finally learned to move forward instead of away, and it is liberating. “S” got me moving, but it hasn’t kept me going.
I wish I could end here, triumphant and basking in my new inspiration, but life is more convoluted. Motivation is a double edged sword; it keeps me facing forward, but it also keeps me from having to look back. I want to claim that I showed courage in being able to turn from “S”, but I cannot. Motivation is what keeps “S” at bay. I am not perfectly healed, but I am perfect at navigating the best way to heal me. I don’t seek out sadness, so “S” must stay on the sidelines, and until I am completely ready, motivation is more than enough for me.
Bạn đã đọc kỹ bài luận rồi đúng không? Hãy bắt đầu cùng nhau tìm hiểu người viết đã thành công như thế nào và những lựa chọn nào cô ấy đã đưa ra đã giúp cô ấy thành công.
Người viết đã bắt đầu một cách xuất sắc, ngay từ câu đầu tiên. Thật kỳ lạ và cái sự lạ này đã dẫn dắt người đọc đặt câu hỏi. Ô sao thế? Ai lại đi ghét một chữ cái? Làm thế nào mà có thể ghét một chữ cái? Ngay lập tức họ muốn biết nhiều hơn. Tại thời điểm này, họ không biết sinh viên này là ai. Có thể chỉ là một sinh viên điên cuồng ghét các chữ cái nào đó. Nhưng mà họ vẫn muốn biết thêm.
Nên nhớ rằng các nhà tuyển sinh có công việc rất khó khi phải ngồi ngày này qua tháng nọ để đọc hàng trăm bài luận khác nhau. Tạo ra một điều gì đó bất ngờ là một cách hay để nổi bật giữa đám đông.
Of the 164,777 words with “S”, I only grapple with one. To condemn an entire letter because of its use 0.0006% of the time sounds statistically absurd, but that one case changed 100% of my life.
Sự mở bài kỳ lạ vẫn tiếp tục ở hai câu tiếp theo. Thậm chí bạn có thể nói nó trở nên lạ lùng hơn bởi chúng ta nhận được những số liệu thống kê có bao nhiêu từ tiếng Anh có chữ cái S. Nhưng chúng ta cũng học được điều mới rằng người viết chỉ ghét một trong số chúng.
I used to have two parents, but now I have one, and the “S” in “parents” isn’t going anywhere.
Kết thúc đoạn ngắn mở đầu, người đọc đã hiểu tại sao lại có một mở bài lạ lùng đến thế. Quan trọng hơn, họ hiểu tại sao người viết đã chọn chủ đề này. Thực ra đây không phải là một bài luận phàn nàn về chữ cái S. Đây là bài luận nói về sự mất mát cha mẹ, điều đã ảnh hưởng sâu sắc đến người viết.
Đây cũng là lời nhắc nhở tốt rằng chỉ gây chú ý là chưa đủ. Nhiều bài luận khá tệ vẫn có câu mở đầu thú vị. Điều mà người viết đầm là gây chú ý sớm và rồi dẫn dắt trực tiếp đến vấn đề thực sự – cô ấy và câu chuyện của mình.
“S” follows me. I can’t get through a day without being reminded that while my friends went out to dinner with their parents, I ate with my parent. As I write this essay, there is a blue line under the word “parent” telling me to check my grammar; even Grammarly assumes that I should have parents, but cancer doesn’t listen to edit suggestions. I won’t claim that my situation is as unique as 1 in 164,777, but it is still an exception to the rule – an outlier. The world isn’t meant for this special case.
Những bài luận tốt là những bài giống như câu chuyện và câu chuyện thì phải có cảnh, có nhân vật. Đó chính xác là những gì người viết đã làm ở đoạn thứ hai trong bài luận. Chúng ta có thể hình dung cô ấy ở đó, ăn với một phụ huynh của cô ấy. Chúng ta có thể tưởng tượng bạn bè của cô ấy cùng gia đình ăn những bữa tối ấm cúng, cùng với nụ cười của cả cha và mẹ.
Trong nửa sau của đoạn thứ hai này, người viết đã xuất sắc khi tiếp tục để người đọc hình dung cô ấy đang ngồi một mình trong phòng, viết bài luận. Ở đây, chúng ta có thể thấy, cô ấy đang cố gắng viết một bài luận thật hoàn hảo để chinh phục trường Đại học Harvard và cô ấy sử dụng cả Grammarly để kiểm tra lỗi chính tả. Bằng cách đưa độc giả đến cảnh này, cô ấy đã giúp người đọc kết nối với cô ấy và xem cô ấy như một con người thực sự.
The world wouldn’t abandon “S” because of me, so I tried to abandon “S”. I could get away from “S” if I stayed busy; you can’t have dinner with your “parent” (thanks again, Grammarly) if you’re too busy to have family dinner.
Trong hai câu đầu của đoạn thứ ba, người viết đã tạo ra một bước chuyển mình rất quan trọng. Cô ấy đã viết một mở đầu gây chú ý, nói rằng bài luận này của cô ấy sẽ nói về sự mất mát cha mẹ và rồi đặt chúng ta vào bối cảnh để hình dung về cô ấy. Nhưng đó mới chỉ là miêu tả và miêu tả thôi thì chưa đủ.
Ở đây, người viết đã chuyển sang hành động. Cô ấy đã làm gì để cố gắng và đương đầu với sự mất mát của mình? Nó đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và hành vi của cô ấy như thế nào?
Hãy nhớ rằng những người đọc bài luận là các nhà tuyển sinh đại học và họ muốn thấy sinh viên đã trưởng thành và biết suy nghĩ trước những lựa chọn của chính mình. Cách tốt nhất để chứng minh điều đó là giải thích, như người viết bài luận này đã làm, không chỉ viết về những gì bạn đã làm mà còn TẠI SAO bạn lại làm điều đó.
Any spare time that I had, I filled. I became known as the “busy kid”- the one that everyone always asks, “How do you have time?” Morning meetings, classes, after school meetings, volleyball practice, dance class, rehearsal in Boston, homework, sleep, repeat. Though my specific schedule has changed over time, the busyness has not.
Điều quan trọng là phải đưa những chi tiết thật cụ thể vào trong bài viết của bạn và khi chúng ta đọc kỹ đoạn thứ ba, chúng ta có thể thấy người viết bài luận này đã làm được điều đó. Cô ấy không chỉ nói “Tôi bận”. Cô ấy cho chúng ta biết cô ấy đã bận vì điều gì, chính xác những thứ cô ấy đã làm trong lịch trình dày đặc mỗi ngày của mình bao gồm chơi bóng chuyền, học khiêu vũ và thậm chí đi đến thành phố để diễn tập.
Hãy nhớ rằng các chi tiết càng cụ thể thì đáng nhớ hơn là các tuyên bố chung chung và bạn muốn được nhớ đến.
Morning meetings, classes, after school meetings, volleyball practice, dance class, rehearsal in Boston, homework, sleep, repeat.
Trước khi chuyển đến phần mới, chúng ta xem xét lại cụ thể câu này. Bạn thấy người viết đã làm được gì ở câu này hay không? Cô ấy đã tìm ra cách để truyền đạt đến người đọc tất cả những điều khác nhau mà cô ấy thích làm, mà không làm cho nó giống như cung cấp danh sách hoạt động ngoại khóa mà cô ấy tham gia.
Đây có phải bài luận nói về tình yêu của cô ấy với môn khiêu vũ? Không. Hay tầm quan trọng của bóng chuyền đối với đời sống xã hội và sức khỏe? Cũng không. Nhưng bằng cách viết ra những chi tiết cụ thể này, người viết đã cho các nhà tuyển sinh biết rất nhiều về cô ấy và cô ấy là sinh viên như thế nào trong khi câu chuyện vẫn đang tập trung vào việc mất mát người mẹ thân yêu nhất.
I couldn’t fill the loss that “S” left in my life, but I could at least make sure I didn’t have to think about it. There were so many things in my life that I couldn’t control, so I controlled what I could- my schedule. I never succumbed to the stress of potentially over-committing. I thrived. It became a challenge to juggle it all, but I’d soon find a rhythm. But rhythm wasn’t what I wanted. Rhythm may not have an “S”, but “S” sure liked to come by when I was idle. So, I added another ball, and another, and another.
Ở trên, chúng ta đã nói về cách người viết đã làm tốt công việc của mình. Ở đây, cô ấy sẽ thực hiện bước tiếp theo, đào sâu vào động lực khiến cô ấy luôn làm mình bận rộn bằng những lịch trình dày đặc với rất nhiều hoạt động. Cô ấy chỉ có thể làm điều này bởi vì cô ấy tự đặt ra câu hỏi: Tại sao tôi lại làm tất cả những điều này?
Càng đọc sâu bài viết, chúng ta càng nhận thấy đây không hẳn là bài luận viết về việc mất mát người thân mà là một bài luận về sự mất mát đó đã thay đổi chính người viết như thế nào và nó có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống sau này của cô ấy.
Soon I noticed that the same “color” balls kept falling into my hands—theater, academics, politics. I began to want to come into contact with these more and more, so I further narrowed the scope of my color wheel and increased the shades of my primary colors.
Life became easier to juggle, but for the first time, I didn’t add another ball. I found my rhythm, and I embraced it. I stopped running away from a single “S” and began chasing a double “S”- passion. Passion has given me purpose.
Luôn nhớ rằng một trong những điều mà các nhà tuyển sinh tìm kiếm khi họ đọc một bài luận cá nhân là họ nghĩ bạn phù hợp với trường của họ như thế nào. Một cách để thể hiện bạn phù hợp với ngôi trường của họ là cho họ thấy bạn là người như thế nào thông qua sở thích và đam mê của bạn. Người viết đã cho chúng ta biết rõ đam mê và mối quan tâm của cô ấy bằng cách đề cập đến tất cả các hoạt động ngoại khóa mà cô ấy đã làm. Trong phần cuối của đoạn thứ ba và đầu đoạn thứ tư, cô ấy còn cho người đọc hiểu rõ hơn.
Niềm đam mê là điều mà tất cả các nhà tuyển sinh đều thích nhìn thấy. Nếu bạn yêu thích điều gì đó, hãy để cho họ biết.
I was shackled to “S” as I tried to escape the confines of the traditional familial structure. No matter how far I ran, “S” stayed behind me because I kept looking back. I’ve finally learned to move forward instead of away, and it is liberating. “S” got me moving, but it hasn’t kept me going.
Một câu chuyện hay không chỉ bao gồm nhân vật, bối cảnh hay hành động mà còn cần có sự bước ngoặt. Nếu bạn đọc một câu chuyện mà mọi thứ ở phần cuối vẫn giống hệt như lúc đầu thì đó không phải là một câu chuyện hay, có phải vậy không?
Các nhà tuyển sinh sẽ xem xét các ứng viên có thể chứng tỏ sự phát triển hoặc thay đổi của họ. Người viết đã làm được điều này bằng cách giải thích cô ấy đã học được cách ngừng trốn chạy nỗi đau của mình và thay vào đó là đối diện và chạy theo đam mê của chính mình.
I wish I could end here, triumphant and basking in my new inspiration, but life is more convoluted. Motivation is a double edged sword; it keeps me facing forward, but it also keeps me from having to look back. I want to claim that I showed courage in being able to turn from “S”, but I cannot. Motivation is what keeps “S” at bay. I am not perfectly healed, but I am perfect at navigating the best way to heal me. I don’t seek out sadness, so “S” must stay on the sidelines, and until I am completely ready, motivation is more than enough for me.
Người viết đã kết một đoạn ngắn đưa chúng ta quay trở lại thực tế. Trong bài luận của mình, bạn có thể thử và giả vờ hoặc tuyên bố bạn đã sẵn sàng 100% cho những thử thách đang chờ đợi bạn. Nhưng người viết bài luận này không rơi vào cái bẫy đó. Vâng, thực tế là cô ấy vẫn còn đau, nỗi đau mất người thân. Nỗi đau ấy chưa lành hẳn. Nhưng cô ấy có được phương pháp chữa bệnh phù hợp với mình. Kết quả là, người đọc bài luận cá nhân của cô ấy có cảm giác đây là một người phụ nữ trẻ thông minh, thực tế và trưởng thành, người đã đối mặt với khó khăn trong cuộc sống và lạc quan hướng tới một tương lai tươi sáng.
Bởi vì cô ấy đã viết một bài luận tuyệt vời như vậy (và cũng có điểm tuyệt vời, không nghi ngờ gì nữa), tương lai đó sẽ bắt đầu tại Đại học Harvard.